Đã 46 năm trôi qua kể từ ngày Trường Sa, quần đảo thiêng liêng của Tổ quốc, phần máu thịt được Đại tướng Võ Nguyên Giáp gọi là “những mảnh đất xa xôi, chập chờn trên sóng gió Biển Đông” được hoàn toàn giải phóng. Chiến công lịch sử ấy đã diễn ra như thế nào, gợi mở gì cho hôm nay? Hồi ký của Thuyền trưởng Dương Hồng người tham gia chiến dịch giải phóng đảo Trường Sa những ngày tháng 4 năm 1975 đã ghi lại
Nhớ lại những ngày này của năm 1975
Tàu cập cảng Nhât Lệ. Đã có khách hàng chờ sẵn (mấy anh tuyển tân binh của HQ) lên tàu liên hệ thống nhất kế hoạch xuống quân chở ra Quảng Ninh. Tôi tranh thủ nhảy lên bờ tham quan . Thị xã Đồng Hới bị bom đạn san phẳng rất vắng bóng người. Đứng giữa trung tâm nhìn quanh một vòng chỉ thấy cái tháp nước máy trơ trọi một mình lỗ chỗ vết bom đạn. Một góc khác còn trơ lại một phần tường tháp chuông nhà thờ. Nổi bật trên lề đường số 1 là khẩu hiệu QUYẾT TÂM ĐÁNH THẮNG GIẶC MỸ XÂM LƯỢC bằng vôi trắng kẻ trên vỏ bom bi mẹ, mỗi chử cái một vỏ nứa quả bom mẹ dựng thành hàng dài. Cách đó không xa có một căn nhà lụp xụp bên đường số 1 có vài người thấp thoáng,đến gần thấy biển hiệu khiêm tốn : Bưu Điện Đồng Hới.
Hai tàu V601 và V604 thả neo hạ lưu Phà Rừng.Sau gần 24 tiếng đồng hồ, chuyển trả hết trên 600 tân binh là khách bằng phương pháp phà cập mạn tàu, khách sang phà chuyển tải lên bờ phía Quảng Yên.
Trở về cập cảng K20. Vừa cập cầu là được bổ sung dầu nước và thực phẩm ngay trong ngày. Biên đội mới được thành lập. V601 kỳ hạm và 649 kỳ viên. V601vẫn anh Hoàng Ngọc Vĩnh trung úy thuyền trưởng, tôi – Học viên thuyền phó, Nguyễn Ngọc Đủ thiếu úy CTV. Biên chế thêm anh Châu cơ công Radar của quân chủng điều xuống làm “bác sỹ” riêng cho bộ Radar tậm tịt của tàu. Còn tàu 649 thượng úy Tư (Tư Tỏi) thuyền trưởng, anh Phụng (Phụng rỗ, lớp 12B) thiếu úy thuyền phó, anh Tân (Tân hói) Thiếu úy CTV. Nhiệm vụ của hai tàu khẩn trương vào Đà Nẵng phối thuộc vận tải phục vụ Quân Khu V. Riêng tàu tôi V601 chở hai khách đặc biệt là vợ và con gái tư lệnh HQ Nguyễn Bá Phát từ K20 vào Quân Cảng Sơn Trà Đà Nẵng để về thăm gia đình, sở chỉ huy HQ tại Quân Cảng Đà Nẵng sẽ tiếp đón khách.
07g sáng hôm sau hai tàu rời bến. Trời yên biển lặng, ai ai lòng cũng đang phới phới rộn niềm vui toàn thắng, thênh thang quá , cảm giác như đang được bay lên, lướt nhẹ trên mặt biển.
Hai tàu rời quân cảng vào sông Hàn cập cảng dã chiến khu vực kho hậu cần của Mỹ sát bến nghiêng đầu cầu Trịnh Minh Thế, sau này gọi là cầu Nguyễn Văn Trỗi. Hai ngày nhận hàng, tàu nào cũng chỉ một nửa trọng tải, chủ yếu súng đạn các loại. Lương thực thực phẩm các loại, hàng Mỹ, hàng trung Quốc lẫn lộn. Xuống hàng không phải kiểm kiện. Quân tàu tôi tranh thủ vào kho quân tiếp vụ khuân một số gạo sấy, đồ hộp, thuốc lá RUBY, Mấy thùng quân trang dùng làm đồ bảo hộ lao động, mấy thùng tất len cao cổ, dày vải, pháo sáng, mấy khẩu súng AR 15, cabil v.v… Sau 2 ngày số hàng cần vận chuyển đã xuống đủ, sẵn sàng cho sáng hôm sau rời bến chi viện các đảo Trường Sa.
Đưa quân của Sư đoàn 2 ra chốt Trường Sa
Sáng sớm, gần chục xe nhà binh chở đầy lính rầm rầm xuống đậu xếp hàng dài trên cầu tàu. Ông Đoàn Kỳ Minh từ cabil xe đầu tiên bước xuống cảng, lệnh tất cả xuống xe và tập hợp theo từng đơn vị nhỏ. Lính chiến trường với đủ quân tư trang ổn định đội hình nhanh gọn. Ông Minh nói gì đó với các chỉ huy và lệnh lần lượt lên tàu. Thủy thủ tàu hướng dẫn anh em ổn định chổ nghỉ dưới hầm tàu. Để đảm bảo bí mật di chuyển quân, quy định khi tàu rời bến cơ động trong luồng tất cả khách đều ở dưới hầm tàu, lúc nào tàu ra biển sẽ được thông báo và mọi người được tự do đi lại sinh hoạt trên tàu. Ông Đoàn Kỳ Minh là thiếu tá trưởng phòng tác chiến Sư đoàn 2 mà ông Nguyễn Chơn làm Sư Trưởng. Đã hai ngày trước tôi từng tiếp xúc với ông Minh khi tàu nhận hàng. Vui vẻ, bao quát sâu sát, dễ nóng tính và hay mắng yêu lính là những gì bước đầu tôi thấy ở ông. Biết Sư 2 nổi tiếng với tư lệnh Nguyễn Chơn nổi tiếng cho nên trưởng phòng tác chiến của Sư đoàn chắc chắn là một sỹ quan tầm cở. Suy nghĩ vậy nên tôi thường để ý đến ông. Tôi xếp ông ngủ ở phòng tôi còn tôi ngủ ở gầm cabil, là buồng gắn mô tơ lái và thiết bị Radar. Dạng tàu Nhật Lệ, tuy đây không phải buồng ngủ nhưng là buồng hạng sang trên tàu, chứa được khoảng 6 người trên chiếc chiếu đôi ngồi nhậu. Chỉ vì trần cao khoảng gần 1m30 ra vào cửa phải lom khom và đã vào phòng chỉ ngồi hoặc nằm . Lợi thế phòng này là bất kể tàu hành trình hay neo đậu mở cửa sổ luôn được gió lùa rất mát mẽ và quan sát được trước boong.
Ra khỏi cửa biển Đà nẵng.Tuy sóng gió chỉ cấp 3 nhưng chẳng mấy khách lên boong vì đi biển chưa quen. Sau vài giờ đồng hồ, phần lớn khách lên boong, lên hành lang cabin ngắm biển, tuy vậy bữa cơm trưa nhiều khách bỏ qua.
Hướng Đà Nẵng đi Lý Sơn so với hướng Lý Sơn đi Đảo Nam Yết lệch nhau chỉ mấy độ cho nên tôi cố tình xác định vị trí tàu nhiều lần vừa địa văn vừa Radar để kiểm tra lại độ chính xác của la bàn trên hướng đang đi, nhằm tạo niềm tin khi hành trình từ Lý Sơn xuống Nam Yết. Chưa bao giờ đưa tàu hành trình trên một hướng với quảng đường trên 450 hải lý nên tôi có phần lo lắng nếu sai một ly sẽ đi sai nhiều dặm giữa vùng biển lạ với nhiều bãi san hô và đá ngầm, các đảo nổi vừa nhỏ lại có độ cao trung bình dưới 3m so mực nước biển ban ngày đến gần mới thấy. Một điều mà tôi đặc biệt lo lắng nữa là hướng từ Lý Sơn xuống Nam Yết không có tổng đồ. Kế hoạch đi biển tôi làm trên tờ bản đồ theo dõi bão của khí tượng thủy văn, không phải hải đồ đi biển, tôi chưa biết độ chính xác đến mức nào.
Thuyền trưởng và tôi cùng thực hiện chuyển hướng chính Lý Sơn đi Nam Yết. Hai anh em thay nhau kiểm tra so sánh giữa la bàn lái và la bàn chuẩn cùng thống nhất hướng lái. Chuyển hướng xong vào khoảng 17giờ cũng vừa lúc bữa cơm chiều khá rộn ràng và đông đủ trên boong.
Hình như tâm lý thuyền trưởng và tôi có chung nỗi lo trên hướng đi này dù không ai nói ra. Sau bữa cơm chúng tôi cùng lên boong thượng. Lúc đầu có cả ông Kỳ Minh và một vài anh em thủy thủ trải chiếu ngồi uống trà,trò chuyện rôm rả. Đêm xuống gió nhiều hơn và có chút sóng nên mọi người về phòng riêng còn tôi cùng anh Vĩnh vừa chuyện trò vừa thỉnh thoảng ngó la bàn xem lính lái chính xác hay không. Cũng từ lo nghĩ mà Thuyền Trưởng Vĩnh nói như phàn nàn một câu: “ Trung úy đi kỳ hạm mà thượng úy đi kỳ viên…”. Qua câu nói đó tôi thầm nghĩ có thể cấp trên cho rằng tàu tôi V601 có Radar cho đi trước dẫn đường cho 649 không có Radar theo sau, vì vậy mà điều động cụ Châu trùm cơ công của quân chủng trực tiếp theo tàu làm “bác sỹ riêng” cho Bộ Radar tậm tịt của tàu tôi.
Tàu mắc cạn – Mất phương hướng !
Càng về đêm sóng gió tăng cấp 3 cấp 4, thỉnh thoảng có cơn sóng chao đảo con tàu. Tôi soi đèn pin đi một vòng phía trước từ cabil đến mũi tàu kiểm tra lại việc chằng buộc thiết bị trên boong , tất cả đều ổn, quay lại nhặt được gần chục con cá chuồn tươi rói, chẳng cần rửa,chỉ lấy nột đoạn dây thép xiên qua mắt treo ngang trong buồng ống khói sau cabil, thế là yên tâm sẽ có mồi nhậu hấp dẫn.
Thường thì có chút sóng dễ ngủ, sau một giấc ngủ ngon cũng là lúc tôi vào ca trực. Càng về sáng sóng gió càng êm. Tôi lấy lịch thiên văn tra phương vị mặt trời mọc ghi vào mảnh giấy và lên thằng boong thượng chực sẵn chờ thời cơ kiểm tra lại sai số la bàn trên hướng đang đi. Rồi binh minh thức dậy, sáng dần ánh sáng rực hồng . Đường chân trời mảnh kéo dài đằng Đông, mặt biển phẳng lặng, nhuộm hồng hồng bóng loáng, cảm giác như nước biển đóng thạch. Mặt trời đỏ rực từ từ nổi lên . Chỉ chục giây thôi liên tục quan trắc so sánh tham khảo sai số la bàn, một kết quả như ý đủ độ tin cậy trên hành trình. Trời ong ong oi oi khó chịu. Nhiều khối mây xám đặc treo lơ lững không cao lắm trên đường chân trời như đang bị mặt trời đốt cháy, càng lúc càng cháy đỏ dưới bụng, từng vệt, từng vệt dài căng ngang,tầng tầng xé toạc cả vầng trời hồng phía Đông. Rồi mặt biển sáng lóa nhòa cả đường chân trời và chẳng thể nhìn thấy nếu có mục tiêu phía mặt trời. Đấy là bình minh lần đầu tiên tôi được đón nhận giữa xa khơi.
Sau bữa cơm chiều cũng là lúc trời biển nổi cơn thịnh nộ. Một cơn dông chặn ngang trước mũi tàu đen kịt kéo loang sang cả trời biển mạn phải. Chẳng mấy chốc bốn bề mù mịt , sóng gió nổi lên vùi dập con tàu. Tất cả khách dồn vào vào hai hành lang và phòng câu lạc bộ tàu. Màn hình Radar nhòe nhoẹt rồi chập chờn. Anh Châu sau mấy chục phút bám Radar cuối cùng không thể trụ nổi với sóng gió và anh cũng bụp xẹt cùng bộ Radar già nua. Mưa như trút, sóng gió giảm, con tàu không rung giật theo sóng dồi gió táp nữa mà chỉ từ từ đong đưa nghiêng . Mưa tối tăm mặt mũi, không thể nhìn thấy đèn tàu đi sau.Tàu nghiêng bên nào nước trên boong thượng trút ào sang bên đó. Cứ vậy mưa kéo dài chừng nửa tiếng đồng hồ rồi mưa nhẹ dần cùng sóng gió. Hai con tàu lại ung dung bám đuôi nhau lầm lũi lươt trên mặt biển.
Đang ngủ say sau ca trực bổng giật mình vì một tiếng động lạ kéo dài và con tàu khựng lại. Tôi vùng dậy chui ra khỏi phòng ,tiếng tay chuông dật lên vội vàng, máy ngừng cũng là lúc tôi chạy vào cabil, mấy anh em trực ca nhốn nháo. Tiếng anh Đủ chính trị viên la to “ tàu cạn rồi”. Tôi vội vàng kéo một hồi còi dài, kéo tiếp 5 tiếng còi ngắn , muốn cho tàu 649
đi sau nghe và chú ý. Gọi Chú Xuân VTĐ dùng đèn pha báo cho tàu 649
biết. Lúc này trời cũng đã sáng rõ . Anh Vĩnh ở buồng lái còn tôi cùng mấy thủy thủ dùng giây dọi đo sâu hai bên tàu từ mũi đến lái. Sau đuôi tàu sâu trên 10m, từ hầm hàng 1 đến mũi tàu chỉ sâu hơn 1m. đo kiểm tra các két dằn và hầm hàng thấy không có hiện tương thủng tàu. Thuyền trưởng lùi máy hết tốc độ kết hợp lái nhưng không thể ra khỏi cạn. Cho bơm hết nước dằn két mũi. Kết hợp máy lùi và tàu 649 cùng kéo cũng chẳng thể ra cạn được. Tôi tra thủy triều biết triều đang xuống đã mấy tiếng đồng hồ. Việc lùi tàu lúc này tạm dừng. Lôi hải đồ ra xem tàu cạn ở đâu, thuyền trưởng và tôi đều không thể khẳng định chính xác vị trí tàu lúc này. Phải nói rằng chúng tôi đã “mất phương hướng”. Cụ Minh buồn lặng lẽ rời cabil đi ra trước mũi tàu tay bám lan can mắt nhìn xuỗng nước.